... Hắn và đồng đảng đã cam tâm làm nô lệ ngoại bang , đặc biệt là Nga Tàu , mang chiến tranh tang tóc đến cho dân tộc VN , bán đất nhượng biển của Cha Ông ta đã bao đời dày công xây dựng ...
* * *
Tội Ác HCM & CSVN
1949-1956 : Năm đợt Cài Cách Ruộng Đất : 500 ngàn nạn nhân ; 1954 : Gần 1 Triệu người đã bỏ Tất Cả để vào Nam tìm Tự Do ...
Hãy nhìn kỷ gương mặt tên Quỷ Ấu Dâm Hồ Tặc lúc đó 74 T và Cô Bé miền Nam 15 T ...
... Bác bồng Tôi lên gường hai tay bác đè Tôi ra và lột áo quần Tôi , Bác như một con cọp đói mồi . Sau một hồì kháng cự Tôi biết mình không thể nào làm gì hơn nên đành nằm xui tay ... Hai hàng lệ một cô gái miền Nam vừa tròn 15 tuổi đã bị Bác cướp đi mất cái trong trắng ...
Tài liệu bằng hình ảnh dưới đây , khá quan trọng , đưa ra bằng chứng TC và CSVN đã phối hợp thủ tiêu các cột mốc cũ . Câu hỏi được đặt ra và dễ trả lời là đường biên giới cũ mà CSVN đã nhượng cho TC nằm sâu trong lãnh thổ VN …
Thiếu Tá Võ Đằng Phương Bất Khuất & Kiêu Hùng Dương Viết Điền 2010/04/06
Tháng Tư Đen, tưởng nhớ người bạn tù tại trại Xuân Phước A20 (Tuy Hoà).Anh đúng là biểu tượng bất khuất và kiêu hùng của một sĩ quan Quân Lực VNCH. Xin gởi đến quý độc giả bài viết rất trung thực của anh Dương Viết Điền. Riêng tôi mỗi tháng tư xin cúi đầu chào người anh hùng của Đất Việt, và người bạn tù mà chúng tôi luôn kính trọng ...
Nói đến cuộc bạo động trong tù, chúng ta không thể quên được « vụ 20/04 năm 1979 ».xảy ra tại phân trại 04 thuộc trung tâm trại « cải tạo » Bình Điền tại tỉnh Thừa Thiên. Vụ này do một ban tham mưu gồm 9 Sĩ quan của QLVNCH chỉ huy toàn thể 500 tù nhân trong trại vùng dậy đòi cải tổ chế độ lao tù. 9 sĩ quan trong ban tham mưu đó là :
Trung Tá Nguyễn Tri Tấn : Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 2/SĐ3BB Thiếu Tá Vũ Ngọc Tụng : Quân Trấn Đà Lạt Thiếu Tá Phạm Cang : Tiểu Đoàn trưởng TCLC Thiếu Tá Lê Quang Liển : Sĩ Quan TCLC Thiếu Tá Hoàng Hưng : Sĩ quan Bộ Binh Thiếu Tá Phan Văn Lập : Chi Đoàn Trưởng Thiết Giáp. Trần Biên : Sĩ Quan Truyền Tin SĐ5/BB Đại Uý Nguyễn Thuận Cát : Sĩ Quan Biệt Động Quân Đại Uý Nguyễn Đình Khương : Tiểu Đoàn Phó TĐ120 Địa Phương Quân, Tiểu Khu Quảng Trị ...
Sau vụ này nhiều anh em tù nhân đã bị bọn công an đánh đập một cách bạo tàn đến gãy xương, trào máu, bầm gan tím ruột. Nhiều sĩ quan đã bị chết trong tù sau những trận đòn dã man vô nhân đạo như Đại Uý Nguyễn Văn Báu, Đại Uý Nguyễn Thuận Cát, Thiếu Uý Trần Hữu Sơn. Còn tất cả 9 sĩ quan trong ban tham mưu nói trên đều bị cùm tay, cùm chân gần năm năm trời trong nhà biệt giam. Nếu ai có ở tù tại phân trại 4 thuộc trung tâm trại « cải tạo » Bình Điền lúc bấy giờ (20/04/1979 ) mới chứng kiến được cảnh công an từ dưới ty công an thuộc tỉnh Bình Trị Thiên lên tàn sát tù nhân bất chấp cả bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Chúng đã dã man, bạo tàn đánh đấm liên tục không biết mệt. Sau khi hành nghề đánh, đấm, đá, đạp 3 tiếng đồng hồ, bọn công an "thợ đấm" bắt đầu rút khỏi trại để lại trong trại 50 tù nhân nằm la liệt, rên la quằn quại trên những vũng máu như anh Nguyễn Văn Thiện, anh Nguyễn Văn Vy, anh Nguyễn Hữu Ái, anh Đôn, anh Nguyễn Trung Việt, anh Nguyễn Hữu Tứ ... giống như cảnh ở ngoài chiến điạ hoang tàn chờ trực thăng đến bốc xác chết và những người bị thương vậy.
Chứng kiến cảnh đánh đập một cách man rợ như vậy tất cả tù nhân trong trại đều căm thù đến uất nghẹn.Có một sĩ quan trong phân trại 4 lúc bấy giờ cảm thấy hận thù thêm chất ngất.Mang sẵn trong người giòng máu bất khuất và anh hùng của Lê Lợi, Quang Trung, giòng máu kiên cường và dũng cảm của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng cũng như ý thức được Trách Nhiệm, Danh Dự và Tổ Quốc, anh nguyện dấn thân lao vào cuộc chiến mới ngay trong ngục tù Cộng sản ; Tiếp tục nuôi dưỡng ý chí đấu tranh đến giọt máu cuối cùng, ngõ hầu mang vinh quang về bồi đắp cho quê mẹ, tô thắm cho non sông. Bởi vì anh ta biết rằng, chân lý dù có bị đè bẹp xuống dưới bùn lầy nước đọng rồi cũng sẽ ngóc đầu dậy mĩm cười với trời xanh bất chấp cả thời gian lẫn không gian. Cho dù anh có thể bị đoạ đày trong kiếp tù tội thêm 10 hay 20 năm nữa, cho dù anh có thể bị xử bắn theo luật rừng, anh vẫn hiên ngang bảo vệ chân lý đến cùng không một chút nao núng trong lòng : đó là Thiếu Tá Võ Đằng Phương thuộc Lữ đoàn 258 TCLC / QLVNCH. Nhận thấy Cộng sản đã đối xử quá tàn nhẫn vơí tù nhân qua chế độ lao tù trong các trại "cải tạo" nhận thấy Cộng sản đối xử tàn tệ vơí vợ con của tất cả các sĩ quan cũng như của các viên chức thuộc chính phủ Việt Nam Cộng Hoà trước đây, nhận thấy Cộng sản sau khi chiếm được miền Nam vẫn cổ xuý chiến tranh gây hấn Kampuchia làm con dân nước Việt chết thêm hàng chục nghìn người, nhận thấy Cộng sản không chịu thực thi những lời cam kết mà vẫn làm cho nhân dân Việt Nam đói khổ sau hơn 10 năm chiếm được miền Nam, Thiếu Tá Võ Đằng Phương mặc dầu đang ở trong ngục tù Cộng Sản, quyết định viết một bức thư gởi cho tên thủ tướng Phạm văn Đồng để yêu cầu tên thủ tướng nầy giải toả những vấn đề nêu trên. Anh Võ Đằng Phương ở tù lúc bấy giờ đã hơn 10 năm rồi, nhưng anh vẫn dứt khoát viết một bức thư gởi tên thủ tướng Phạm văn Đồng để đại diện cho nhân dân Việt Nam yêu cầu chính phủ Hà nội xét lại chính sách cai trị nhân dân của đảng Cộng sản Việt Nam. Chính Đại Uý Nguyễn đình Khương, Tiểu Đoàn Phó TĐ 120 Điạ phương quân, người đã tham gia vụ 20/04 bị Cộng sản cùm gần 5 năm mới được thả ra, đã được anh Phương móc nối để cùng nhau thảo nên bức thư đó. Lúc anh Khương được đưa từ phân trại 2 về phân trạí 1 thuộc trung tâm trại Bình Điền, anh Khuơng ngủ sát chỗ nằm với anh Võ Đằng Phương. Lúc bấy giờ, mỗi người chỉ được 45 cm chiều ngang để nằm và phải nằm nghiêng mới đủ chỗ nên theo lời thuật lại của anh Khương, hai người đã cùng nhau nằm ngủ trong mền để thảo ra bức thư đó.
Nội dung bức thư mà anh Võ Đằng Phương gởi lên tên thủ tướng Phạm văn Đồng như sau :
" ... ...
Xét rằng :
Sau khi Cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam vào ngày 30/04/1975, tất cả sĩ quan QLVNCH đều bị bắt giam trong các trại « cải tạo » mà không xét xử, không tuyên án ... Đây là một hành động vi phạm trắng trợn hiệp định Paris năm 1973 mà chính các ông đã ký kết.
Tất cả sĩ quan QLVNCH trong những trại « cải tạo » trên khắp lảnh thổ Việt Nam đều bị đối xử quá tồi tệ, vô nhân đạo. Đó là một sự trả thù hèn hạ, thấp kém, điên cuồng, mất cả tình người, không đếm xỉa gì đến bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền.
Gia đình vợ con của tất cả sĩ quan QLVNCH cũng bị đối xử quá tồi tệ :
Họ bị đày lên rừng thiêng nước độc để sống trong các vùng mệnh danh là kinh tế mới.
Tất cả những nhà cửa, tài sản của nhân dân miền Nam bị tứơc đoạt một cách công khai, trắng trợn.
Con cái của các sĩ quan trong chế độ cũ đều bị cấm vào học ở tất cả các trường vì bị coi là con của Nguỵ. Lý lịch 3 đời bị gán cho những thành phần này khiến con cháu họ không thể làm bất cứ việc gì để sinh sống được.
Sau hơn 10 năm đất nước Việt Nam đã thống nhất, nhân dân Việt Nam vẫn còn đói rách, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc. Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt, hoà bình vẫn chưa xuất hiện trên đất nước Việt Nam.Sự tự do dân chủ vẫn chưa được thực thi. Nhân dân Việt Nam vẫn sống trong lo âu sợ hãi. Điều này chứng tỏ Đảng và nhà nước đang thi hành một chính sách sai lầm hoàn toàn.
Nay yêu cầu Đảng và Nhà nước :
Thả ngay lập tức tất cả sĩ quan và những nhân viên của chế độ cũ đang bị giam cầm trái phép và phải đối xử nhân đạo theo bản tuyên ngôn nhân quyền quốc tế.
Hãy đối xử nhân đạo và bình đẳng với vợ con, gia đình của tất cả sĩ quan và những viên chức trong chế độ cũ trước đây.
Xét lại toàn bộ đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước để toàn dân được no cơm ấm áo và được sống trong một nước hoà bình, độc lập, tự do, dân chủ thực sự :
Thực thi hoà giải hoà hợp dân tộc. Phục hồi lại nền kinh tế Chấm dứt chiến tranh Giải toả lệnh bế quan toả cảng để thông thương với nước ngoài.
Làm tại Bình Điền ngày 19/06/1985 Ký tênVõ Đằng Phương Chủ Tịch Lâm Thời Phong Trào Thiết Lập Nền Đệ Tam Cộng Hoà.
Sau khi viết xong bức thư, anh Võ Đằng Phương có mời một số sĩ quan đã tham gia vụ 20/04 cùng ký vào bức thư trên. Nhưng sau đó anh nghĩ rằng các anh nầy vừa tham dự một trận chiến trong ngục tù quá khốc liệt nên để cho các anh ấy nghỉ dưỡng quân một thời gian đã. Thế rồi anh Võ Đằng Phương quyết định ký tên một mình. Sau đó anh ghi lại thành 3 bản, một bản anh gởi cho tên thủ tướng Phạm văn Đồng nhờ trưởng trại chuyển giao, một bản gởi cho tên trưởng trại cải tạo Bình Điền nhờ cán bộ trực trại chuyển giao, và một bản lưu. Sau khi tên trại trưởng trung tâm trại cải tạo Bình Điền là Trung Tá Trần Văn Truyền nhận được bức thư nói trên, anh Võ Đằng Phương liền bị cùm ngay rồi bị đưa vào ở trong nhà kỷ luật khoảng 3 tháng trước khi đưa ra toà xét xử. Dĩ nhiên bức thư của anh PHƯƠNG là một bản án chống lại chế độ Cộng sản Hà nội một cách rõ rệt nên ban tham mưu cán bộ trại " cải tạo" sau nhiều ngày họp với ty công an Bình trị Thiên đã quyết định đưa anh ra toà án nhân dân để xét xử. Đứng trước vành móng ngưạ, Thiếu Tá TCLCVõ Đằng Phương đã trả lời một cách khẳng khái và hùng hồn khiến ai nấy đều cảm phục. Một số nhân viên làm việc trong toà án đã bỏ dở công việc để chạy vào xem vì thấy « bị cáo » là một mẫu người thật khí khái. Cứ mỗi lần quan toà hỏi câu nào, anh Võ Đằng Phương không trả lời trực tiếp, anh giả bộ nói loanh quanh để chưởi chế độ độc tài đang tác oai tác quái trên đất nước Việt Nam. Có đoạn anh PHƯƠNG đã nói :
Tôi nói đây với tư cách của người dân thường, nói lên tiếng nói mà những người chung quanh tôi, bạn bè tôi, nhân dân Việt Nam, không dám nói. Tôi nói có tình có lý, chứ không phải xử dụng biện pháp quân sự để đàn áp.
Nghe anh PHƯƠNG nói vậy, tên quan toà nói ngay : - Anh là một thằng sĩ quan nguỵ không hơn không kém, anh là cái thá gì ? Một triệu nguỵ quân và chư hầu còn thất bại nói gì một mình anh.
Nhưng rồi qua một đoạn khác anh PHƯƠNG vẫn hiên ngang : - Các ông làm gì có luật pháp. Luật pháp của các ông là luật rừng. Tôi đã ở trong tay các ông thì do các ông quyết định.
Thấy những lời nói hùng hồn của « bị cáo » bất lợi cho phiên toà, tên quan toà liền chỉ thị cho « bị cáo » nói câu cuối cùng. Biết chúng cố ý không cho nói nhiều, anh Võ Đằng Phương quyết định cô đọng lại những tư tưởng quan trọng rồi tiếp tục ngẩng đầu cao và dõng dạc trước toà : - Ai là kẻ vi phạm hiệp định Paris 1973 ? - Ai là kẻ đã gây ra chiến tranh và nghèo đói ?
Phạm văn Đồng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc xé bỏ hiệp định Paris. Rồi đây nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân thế giới đều được biết lời nói của tôi trước toà án này.
Anh Võ Đằng Phương đang nói thao thao bất tuyệt thì tên quan toà đứng lên tuyên bố chấm dứt phiên toà để vào nghị án. Sau khi nghị án, toà tuyên án anh Phương 10 năm tù ở sau khi thi hành xong án tù "cải tạo" vì phạm tội "âm mưu lật đổ nguỵ quyền dân chủ nhân dân". Theo anh Nguyễn Kim Chung (Đại Uý TCLC, cũng đã xuất hiện trong phiên toà này như một « bị cáo » vì bị nghi ngờ có liên hệ đến vụ này), khi nghe đọc bản án, anh Chung nghĩ rằng đây là một bài luận văn viết đâu sẵn từ trước vì nó giống như một bài luận văn trong Quốc văn giáo khoa thư của chương trình Bộ giáo dục cho học sinh học. Còn việc đưa anh Võ Đằng Phương ra toà xét xử chẳng qua chỉ là một việc làm có tính cách hình thức để đánh lừa quần chúng mà thôi. Như vậy từ năm 1975 đến năm bị đưa ra toà, anh PHƯƠNG đã ở tù được 10 năm. Bây giờ theo lệnh toà án anh PHƯƠNG tiếp tục ở tù thêm 10 năm nữa là 20 năm. Sau khi rời toà án và bị còng tay đưa lên lại trại « cải tạo » Bình Điền để ở tù tiếp, tên trại trưởng Trung Tá Trần Văn Truyền lúc bấy giờ có khuyên anh PHƯƠNG nên nhún nhường và phải biết điều hơn, anh PHƯƠNG đã quát vào mặt tên trại trưởng :
- Ông đừng có dạy đời tôi nữa, ông biết Trần Bình Trọng trong lịch sử Việt Nam chứ ! Tôi muốn sống như Trần Bình Trọng !
Dĩ nhiên sau đó Thiếu Tá Võ Đằng Phương tiếp tục ở tù thêm 10 năm nữa trong sự uất ức và hận thù triền miên.
Mãi đến năm 1995, anh Võ Đằng Phương mới được Cộng sản trả tự do khỏi trại cải tạo Hàm Tân. Lúc trở lại quê nhà, anh bị bạo bệnh kéo dài và hành hạ do những trận đòn tra tấn dã man và ác độc qua những năm tháng quằn quại trong ngục tù Cộng sản để rồi sau đó, anh đã vĩnh biệt cõi đời trong tức tưởi và uất nghẹn vì thù nhà chưa trả, nợ nước chưa đền.
Qua những hành động đầy kiên cường và bất khuất của Thiếu Tá Võ Đằng Phương nói trên, ta thấy rằng Sĩ quan của QLVNCH là thành phần ưu tú của dân tộc Việt Nam. Ngay trong ngục tù Cộng sản, họ vẫn luôn luôn biểu lộ tinh thần Danh Dự, Tổ Quốc, Trách Nhiệm. Anh Võ Đằng Phương đúng là một Sĩ quan gương mẫu đã vị quốc vong thân.
Tổ Quốc và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà vinh danh anh.